Câu hỏi trang 48 Lịch Sử 9: Liên Xô đã sụp đổ như thế nào? Hãy giải thích lí do của sự sụp đổ đó

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Giải bài tập Lịch Sử 9 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Lịch Sử 9 Chân trời sáng tạo (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

Giải bài tập lớp 9 Chân trời sáng tạo khác

“Hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng” là hình ảnh mà nhà văn Yury Boldarev đã nhắc đến khi nhìn lại những ngày Liên Xô sụp đổ. Những vũ khí tư tưởng ấy đã làm được điều mà nhiều quân đội châu Âu có trang bị tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược Liên Xô vào những năm 1940.

Nhưng trong Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, đã có những người không im lặng. Ngày 13-3-1988, báo “Nước Nga Xô viết” đăng bức thư có nhan đề “Tôi không thể từ bỏ các nguyên tắc” của bà Nina Andreeva, giảng viên Trường Đại học công nghệ Leningrad mang tên Lensovet. Bức thư lên án các tài liệu xuất hiện trên báo chí sau khi công bố chính sách “cải tổ”, bởi những tài liệu này chỉ trích xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là chính sách của Stalin. Bà còn phê phán trào lưu suy ngẫm lại lịch sử, chỉ rõ nó thực chất là dòng nước ngược nhằm bôi đen Liên Xô xã hội chủ nghĩa.

“Cùng với tất cả người dân Liên Xô, tôi bày tỏ sự tức giận và phẫn nộ trước những vụ trấn áp diễn ra trong những năm 1930 và 1940 do lỗi của ban lãnh đạo đảng và nhà nước lúc bấy giờ. Nhưng, lương tri thì kiên quyết phản đối việc chỉ tô vẽ một màu cho các sự kiện trái ngược, hiện đã bắt đầu phổ biến ở một số cơ quan báo chí. Tôi ủng hộ lời kêu gọi của Đảng để bảo vệ danh dự và nhân phẩm của những người khai sáng chủ nghĩa xã hội. Tôi nghĩ rằng, chính từ những cương vị cấp Đảng này, chúng ta phải nhìn nhận vai trò lịch sử của tất cả các nhà lãnh đạo Đảng và đất nước, trong đó có Stalin”, bức thư có đoạn viết.

Đau lòng thay, thay vì phải ủng hộ ý kiến chỉ đúng “tim đen” của trào lưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” này, Bộ Chính trị lại triệu tập hội nghị khẩn cấp với mục tiêu xử lý “thế lực chống đối cải tổ”. Ngày 5-4-1988, báo Sự Thật đăng bài phản kích Nina Andreeva, rồi nhiều cơ quan báo chí khác đồng loạt phản kích. Không dừng ở đó, để “tát nước theo mưa”, báo chí còn xuyên tạc lịch sử Đảng, phủ định Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Lênin và chính Lãnh tụ Lênin.

Thêm một bước sa lầy hơn, họ bãi bỏ môn học Chủ nghĩa Mác-Lênin trong nhà trường. Cơn lốc xét lại lịch sử ùa vào mọi trường học, thành phố, nông trường. Ngoài báo Đảng, xuất hiện thêm những tờ báo gọi là “vì dân”, “cấp tiến” như: Họa báo, Tia lửa và Tin tức Moscow, công khai tấn công, phỉ báng những tượng đài ý thức hệ Xô viết.

Một bộ máy thông tin đại chúng đồ sộ được sử dụng vì mục đích này. Cơ quan thông tin đối ngoại của Mỹ có hơn 8.000 nhân viên, xuất bản 12 tạp chí bằng 27 ngôn ngữ từ phương Tây nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa.

Các đài phát thanh bằng hàng chục thứ tiếng ngày đêm xuyên tạc và bôi đen Chủ nghĩa Mác- Lênin. Tất cả tạo thành làn sóng chống bao trùm lên đất nước Xô viết. Chúng cho rằng, đó là mưu sách “chiến thắng không cần đến chiến tranh”.

Khi đó, đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đã từng có bài viết: “Chúng ta cần phá hoại sự ổn định của Liên Xô và các nước vệ tinh, làm nảy sinh sự bất hoà giữa nhân dân và chính phủ của họ...

Chúng ta cần hết sức cố gắng khoan sâu rạn nứt giữa những người lãnh đạo của tập đoàn cộng sản khiến cho họ bất mãn và nghi ngờ lẫn nhau. Chúng ta cần thổi bùng ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc, khuyến khích sự phục hồi tình cảm tôn giáo đằng sau bức màn sắt”.

Sự thực là những năm trước khi Liên Xô sụp đổ, các tờ báo, thậm chí cả đảng viên, cũng lợi dụng tự do dân chủ chĩa mũi dùi vào Đảng, đánh quỵ uy tín của Đảng.

Ngày 28-12-1987, bài xã luận trên Báo Sự thật cho biết: Liên Xô khi đó có trên 30.000 tổ chức đoàn thể phi chính thức. Những tổ chức này ngang nhiên tuyên truyền chống Cộng, hô hào thành lập đảng đối lập và công đoàn độc lập. Thay vì đem những thông tin định hướng xã hội, những tờ bào này luôn hô hào kích động “Tự do, dân chủ, nhân quyền”. Trong khi đó, Đảng để tuột mất truyền thông khỏi bàn tay của mình.

Gorbachev với tư cách Tổng Bí thư đã mở toang cánh cửa để phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô là sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để thẩm thấu ý thức hệ. Hai đài phát thanh được thành lập ở Tây Âu nhằm vào Liên Xô, là đài Châu Âu Tự do và đài Tự do, hằng ngày phát thanh bằng 6 thứ tiếng, đưa tin về các sự kiện quốc tế, các sự kiện tại Liên Xô và các nước Đông Âu; tuyên truyền thành tựu, lối sống và giá trị quan của xã hội phương Tây.

Bên cạnh đó, đài BBC phát bằng 40 thứ tiếng, rồi đài Sóng điện Đức bằng 35 thứ tiếng. Bốn đài phát thanh này hằng ngày chĩa vào Liên Xô và Đông Âu, với trọng điểm là phủ định lịch sử cách mạng Liên Xô, phóng đại, thổi phồng những vấn đề xã hội của Liên Xô và các nước Đông Âu, kích động tâm lý bất mãn, hướng sự bất mãn này vào Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Người ta tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lãnh tụ Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin và Stalin xuất hiện đầy rẫy trên các báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô, đề nghị mai táng thi hài Lênin.

Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Gorbachev không những mất cảnh giác, mà còn cổ vũ việc tiếp nhận ảnh hưởng từ phương Tây.

Tại cuộc họp của Bộ Chính trị năm 1985, Gorbachev đã nói: “Người Liên Xô phải tiếp xúc trực tiếp với người nước ngoài, đừng sợ, rồi mọi người sẽ thấy thế giới thật bao la, muôn màu muôn vẻ”.

Tháng 12-1988, Liên Xô ngừng gây nhiễu những đài phát thanh phương Tây vốn được coi là đài phản động, đồng thời chi 4 triệu rúp nhập khẩu... báo chí của phương Tây về bán công khai, điều này đã tiếp thêm sức tiến công của phương Tây vào Liên Xô.

Trước và sau những năm 1990, trào lưu tư tưởng vứt bỏ chủ nghĩa xã hội trong xã hội Liên Xô lên đến cao trào. Và không ít thế lực chính trị quyết định quay lưng với chủ nghĩa xã hội, đi thẳng đến chủ nghĩa tư bản.

Điều này hoàn toàn phù hợp với định nghĩa của phương Tây về cuộc tuyên truyền hữu hiệu nhất là “tuyên truyền để đối tượng đi theo hướng mà ta chỉ định nhưng lại làm cho đối tượng lầm tưởng rằng hướng đó là do đối tượng tự quyết định”.

Năm 1994, nhà văn Nga Yury Boldarev đã nhìn lại 6 năm bão táp trên trận địa tư tưởng ấy và chua chát nhận xét: “Trong 6 năm, báo chí đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội châu Âu có trang bị tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được, khi xâm lược đất nước ta bằng lửa và kiếm vào những năm 1940. Quân đội đó có thiết bị kỹ thuật hàng đầu, nhưng thiếu một thứ. Đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng”.

Sau này, tháng 2-2012, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” rằng: "Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết, có việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi nhưng chỉ cần 10 sứ giả là có thể hoàn thành; một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước; ngày nay làn sóng điện thay thế các thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim, khối óc con người; 1 USD chi cho tuyên truyền thì có tác dụng ngang với 5 USD chi cho quốc phòng; kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là 4 đòn đột phá, 4 mũi xung kích chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị”.

Ảnh 1: Phụ nữ Siberia ngồi trước nhà trong không khí ảm đạm. Ảnh 2: Quầy thu ngân tại một cửa hàng ở Moscow vào năm 1991, khi Liên Xô cận kề sự tan rã hoàn toàn. Ảnh 3: Bên trong một phòng bệnh nhân của một bệnh viện xuống cấp ở Moscow vào tháng 7/1991. Ảnh 4: Các nữ công nhân mỏ ở Novokuznetsk trong giờ giải lao. Không một nụ cười trên môi. Ảnh: Peter Turnley.

Khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev phát động chính sách “cải tổ”, hai “công cụ hỗ trợ” rất quan trọng được các cố vấn của ông ta tham mưu, đề xuất sử dụng là thúc đẩy “đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” trong xã hội Xô viết. Lúc đầu cũng chỉ là “đa nguyên ý kiến”, chưa phải là đa đảng và “công khai hóa” trong lĩnh vực báo chí – xuất bản, chứ chưa chạm đến công khai, minh bạch trong quản lý xã hội, quản lý kinh tế…

Hai “công cụ hỗ trợ” này đã giúp Mikhail Gorbachev và ê-kíp của ông ta “bật đèn xanh” rất thoáng cho những phát biểu công kích Đảng và chế độ Xô viết, xuyên tạc lịch sử đất nước, bôi nhọ nhiều nhà lãnh đạo, người có công trong việc tạo lập, xây dựng và bảo vệ Nhà nước Liên bang Xô viết.

Trong điều kiện cải tổ, truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản, báo chí Liên Xô dường như được “tự do” hoạt động, hàng loạt chương trình, ấn phẩm đủ thể loại được cho là “dũng cảm” mổ xẻ những trang “đen tối” của Đảng Cộng sản, Nhà nước và quân đội Xô viết.

Cùng với đó, đường phố, quảng trường, công viên, nhất là tại những đô thị lớn như thủ đô Moscow, thành phố Saint Petersburg, trở thành nơi tập hợp, thành diễn đàn của các phe nhóm chống Đảng Cộng sản Liên Xô. “Đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” lan rộng, thì các đảng chính trị mới đối lập với Đảng Cộng sản Liên Xô liên tiếp ra đời, tất cả đều đòi thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.

Một số cơ quan báo chí Liên Xô khi đó vẫn kiên định lập trường kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và Nhà nước Liên bang Xô viết thì bị coi là “bảo thủ”, phải hứng chịu những cuộc công kích dữ dội, thậm chí lực lượng chống Đảng Cộng sản Liên Xô có những ngày tổ chức mua hầu hết số lượng báo chí xuất bản, dồn lại châm lửa đốt rụi tại các địa điểm công cộng.

Nhà báo Nguyễn Đăng Phát, Phóng viên thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại Liên Xô/Nga giai đoạn 1989-1993, người chứng kiến những năm tồn tại cuối cùng của Liên bang Xô viết, Tổng Thư ký Hội Hữu nghị Việt-Nga, nhớ lại: “Dựa trên “tâm trạng xã hội” do chính sách đa nguyên ý kiến và công khai hóa khuấy động lên như vậy, hoạt động nghị trường trong khuôn khổ Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô và Xô viết Tối cao Liên Xô cũng sục sôi như không khí ngoài đường phố. “Nóng” nhất là những cuộc tranh cãi, những lời hô hào đòi bỏ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô (về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô).

Rốt cuộc, Điều 6 bị xóa bỏ, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành một đảng “bình thường” như những chính đảng khác đã ra đời ồ ạt như nấm mọc sau cơn mưa… Từ đây, đường đến chỗ Liên bang Xô viết sụp đổ không còn xa nữa”.

Ngay sau khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1985, Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô và “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ, đã nhanh chóng được đề bạt làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương.

Dưới sự tác động và chỉ đạo của ông ta, nhiều tờ báo hàng đầu và có ảnh hưởng lớn của Liên Xô lúc đó đã được thay ban lãnh đạo bằng những người ủng hộ chính sách “cải tổ” do Gorbachev đưa ra.

Chính điều này đã tạo điều kiện cho truyền thông “trở mặt” và bắt đầu thao túng dư luận, nhằm thay đổi nhận thức và tư tưởng của mỗi người dân. Một số tờ báo và tạp chí “cấp tiến” quay sang đả kích và bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến nhận thức và tư tưởng của dân chúng bị lung lay.

Dưới sự điều khiển báo chí của Yakovlev, quá trình phá hoại Liên Xô vào cuối thập niên 1980 diễn ra không giống như một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của mỗi người. Được sử ủng hộ của Gorbachev, ông ta đã mặc sức phá hoại nền tảng văn hóa con người Xô viết bằng cách “giết dần giết mòn” nền tảng đó.

Sau khi chương trình “công khai hóa” bắt đầu có hiệu lực từ năm 1986, một số lượng lớn các tác phẩm văn hóa, vốn trước đây từng bị cấm xuất bản, đã được tung ra trước công chúng.

Ban đầu, người dân Liên Xô không biết tỏ thái độ thế nào với chính sách “công khai hóa”, cũng như đưa ra đánh giá như thế nào về những gì đang diễn ra. Mọi người chưa thể hình dung được những hậu quả cuối cùng sẽ ra sao khi bãi bỏ kiểm duyệt như vậy.

Người ta cho phép phát hành những tác phẩm công khai chỉ trích chính quyền Xô viết và mô hình chính quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có những tác phẩm như: “Những đứa trẻ Arbat” của Rybakov, “Biến mất” của Trifonov, “Cuộc sống và số phận” của Grossman…

Cùng với các tác phẩm nghệ thuật, báo chí số ra theo kỳ cũng trở nên phổ biến, trong đó có “Luận chứng và sự kiện” (được đưa vào sách kỷ lục Guinness về số lượng phát hành lớn nhất thế giới với 30 triệu bản mỗi ngày), “Sự thật”, “Tin tức Moscow”, “Thế giới mới”, “Lao động”... Các chương trình truyền hình “Nhìn nhận”, “Trước và sau nửa đêm”, “Bánh xe thứ năm” trở nên rất nổi tiếng. Bảng xếp hạng các chương trình truyền hình cho thấy chúng chiếm những vị trí đầu tiên.

Qua những chương trình truyền hình này, khắp mọi nơi người ta bắt đầu bàn tán về sự không hoàn hảo của hệ thống xã hội chủ nghĩa, những ưu điểm của phương Tây, thậm chí còn xét lại lịch sử khi đề cập đến vai trò lãnh đạo của Stalin và tác hại của Cách mạng Tháng Mười đối với nước Nga. Tại thời điểm đó, thể hiện rõ nhất sự thay đổi nhanh chóng trong tư duy và nhận thức của người dân.

“Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu. Báo chí bắt đầu đăng tải những bài viết theo chính sách “ngu dân” về đề tài lịch sử và kinh tế kiểu như: “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ nói ra cho các bạn toàn bộ sự thật”.

Bộ máy tuyên truyền của Liên Xô từng được coi là một trong những bộ máy hoạt động mạnh và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cũng cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển văn hóa quần chúng ở phương Tây.

Nếu Liên Xô không cản trở dòng nhạc mới và phong cách thời trang, mà ngược lại, nên củng cố và phát triển xu hướng này, thì nước này đã cho thấy rằng, không chỉ trong vũ trụ, mà còn trong những lĩnh vực này họ là người đi tiên phong trên thế giới. Liên Xô lẽ ra phải đi đầu trong mọi lĩnh vực, mặc dù chế độ Xô viết được coi là ở thời kỳ tốt nhất vào thời điểm đó.

Trong những thập niên từ 1960 đến 1980, nước này đã sản xuất ra những bộ phim hay nhất được đưa vào “Quỹ văn hóa thế giới vàng”. Thậm chí ngày nay, nhiều người vẫn say sưa và thích thú xem đi xem lại những bộ phim này. Nhưng cuối cùng, thời trang và âm nhạc phương Tây đã lấn át mọi thứ. Đối với thiếu niên Liên Xô, việc nghe nhạc trong nước hay mặc trang phục Liên Xô đi dạo sẽ làm mất đi thể diện của họ.

Phần lớn người dân Liên Xô lúc đó, do tác động của truyền thông báo chí với chính sách “công khai hóa”, nên muốn có cuộc sống “như ở phương Tây”. Và họ đã đạt được điều đó, nhưng rồi cuối cùng nhận ra rằng, những chiếc quần jean không phải là giá trị cơ bản trong cuộc sống. Các học thuyết, mà trước hết là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị bỏ lại phía sau rất xa, thậm chí còn bị lãng quên.

“Học thuyết Mác-Lênin nhất định phải được phát triển có tính đến những thay đổi diễn ra trên thế giới, nhưng hiện không ai làm điều này và cũng không có những nhà tư tưởng như vậy để làm. Nhưng Lênin vẫn không ở lại phía sau chúng ta, mà là đang ở phía trước.

Rồi thời đại của Người chắc chắn sẽ quay trở lại sau bao năm bị lãng quên, cố tình im lặng về nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga này”, ông Grigory Trofimchuk, chuyên gia trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, quốc phòng và an ninh, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ nghiên cứu Á-Âu, nhận định.

Sinh thời, V.I. Lênin từng nêu một luận điểm nổi tiếng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta thì luôn đề cao giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.

Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng...”. Theo Người: “Tự vệ là bảo vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình, nước mình”.

Trong giai đoạn hiện nay cũng như vừa qua, đã có nhiều biểu hiện trào lưu xét lại lịch sử, phủ nhận quá khứ hết sức nguy hiểm. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta xác định một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là: “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.

Chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, để lịch sử như tấm gương soi, giúp thế hệ sau soi vào cả quá khứ và hiện tại, tương lai với sự trân trọng, biết ơn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá.

Đối với báo chí, truyền thông, phải luôn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để phát huy tốt nhất vai trò là vũ khí tư tưởng sắc bén của Ðảng và Nhà nước, là cầu nối giữa Ðảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực.

Bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô 30 năm mà như mới hôm qua. Mới đây nhất, trong Hội thảo khoa học “Báo chí với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” được tổ chức tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đã nhấn mạnh: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị. Mỗi cơ quan báo chí phải là “pháo đài” chính trị tư tưởng vững chắc trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”.

L.T.S: Chỉ còn ít ngày nữa là đến thời điểm tròn 30 năm Liên bang Xô viết sụp đổ, đánh dấu bằng buổi tối mùa đông lạnh giá 25-12-1991, lá cờ đỏ búa liềm từ đỉnh tháp Kremli sau 74 năm tung bay đã phải hạ xuống, thay vào đó là lá cờ ba sắc. Sự kiện được coi là cơn địa – chính trị chấn động thế kỷ XX này đã làm thay đổi sâu sắc thời đại chúng ta đang sống và để lại rất nhiều bài học đắt giá về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhân dịp này, Báo Quân đội nhân dân Điện tử trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc loạt bài “30 năm Liên Xô sụp đổ và bài học cho Việt Nam” hi vọng góp phần phân tích, rút ra những điều thiết thực để tiếp tục thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên định thực hiện thắng lợi con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Trước khi thực hiện loạt bài này ít lâu, chúng tôi có dịp đến công tác tại Liên bang Nga và một vài nước thuộc Liên Xô. Trong chuyến đi ấy, có cảm xúc rất đặc biệt khi đến những địa danh như Tháp Kremli, nơi lá cờ Liên bang Xô viết bị hạ xuống hay trước tòa nhà Duma Quốc gia Nga, nơi xe tăng từng xuất hiện cho thấy sự nguy hiểm của “phi chính trị hóa” quân đội.

Khi ấy, một câu hỏi cứ văng vẳng trong chúng tôi: Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô do Lênin sáng lập, từng lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, xây dựng thành công Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên lại tan rã? Vì sao một đảng từng lãnh đạo nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, đánh bại phát-xít Đức trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và đóng góp to lớn cho thắng lợi của thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai lại mất địa vị cầm quyền sau 74 năm với bao trang sử vẻ vang?

Chúng tôi đã tìm thấy phần nào câu trả lời chính từ những nhà báo tiền bối ở Báo Quân đội nhân dân.

Ngày 22-4-1990, hơn một năm trước ngày Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, Thiếu tướng Trần Công Mân, Tổng Biên tập Báo Quân đội nhân dân trong bài viết “Cuộc chiến đấu chưa kết thúc” đã đưa ra cảnh báo chính xác khi xuất hiện trào lưu ở Liên Xô và nhiều nước XHCN, nhiều người né tránh, không nhắc đến Đảng Cộng sản, đến CNXH. Nêu ra và cũng tự trả lời, ông khẳng định niềm tin mãnh liệt vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của CNXH.

Không riêng ông, những nhà lãnh đạo lớn của đất nước ta từ ngày đó đã nhìn thấy “tử huyệt” dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và nhìn rõ Đảng ta, đất nước ta, nhân dân ta cần phải làm gì.

Tháng 4-1992, đồng chí Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã có bài viết hết sức sâu sắc với tựa đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản. Đồng chí chỉ ra 5 nguyên nhân chủ yếu: Không xác lập đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng, buông lơi công tác xây dựng Đảng; phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng; Coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ; xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ;Từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Thật ra, sai lầm, sự chệch hướng đã diễn ra từ khá lâu. Sâu xa theo nhà nghiên cứu, Đại tá Lê Thế Mẫu (nguyên Trưởng Phòng thông tin Khoa học Quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng) phải kể đến những cải cách thời N. Khrushchev nhằm mục đích phá hoại Liên Xô từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước, về sau được coi là “cải tổ 1.0”, tạo tiền đề cho “cải tổ 2.0” dưới thời M.Gorbachev. Người ta đã xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, bôi nhọ Stalin, đề ra khẩu hiệu “nhà nước toàn dân”, “đảng toàn dân”.

Người dân Litva (nước thành viên của Liên Xô) tụ tập ở thủ đô Vilnius vào ngày 12-1-1990 để đòi tách khỏi Liên Xô. Litva là nước cộng hòa Xô viết đầu tiên tuyên bố độc lập. Ảnh: Getty.

Theo chương trình cải cách, N. Khrushchev còn hủy bỏ hàng loạt dự án hiện đại hóa quân đội như nghiên cứu chế tạo các thế hệ vũ khí trang bị mới cho hạm đội Hải quân và Không quân Liên Xô. Bởi những sai lầm nghiêm trọng đó, tháng 10-1964, sau nhiều chỉ trích, phê phán, N. Khrushchev phải ký tên vào văn bản từ chức. C

Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev (giữa) đang nói chuyện với cư dân Vilnius, Litva, vào ngày 11-1-1990 trong một nỗ lực làm chậm lại quá trình ly khai của nước cộng hòa này. Ảnh: AP.

Khrushchev buộc phải từ chức Tổng Bí thư nhưng những nấm độc chống phá đã được gieo mầm. Một số cán bộ trẻ tuổi của Đảng Cộng sản Liên Xô thời đó như Mikhail Gorbachev, Alexander Yakovlev, Eduard Shevardnadze...đã bị tác động rất mạnh bởi những tư tưởng cơ hội, xét lại như vậy.

Nhà nghiên cứu Lê Thế Mẫu gần đây trong bài viết của mình đã công bố thông tin từ các tài liệu được giải mật của Mỹ cho thấy: Trong chiến lược "Diễn biến hòa bình" của Mỹ có Dự án Harvard và Dự án Houston nhằm làm tan rã Liên Xô chia làm 3 giai đoạn. Trong đó, giai đoan 1 (1985-1990) sẽ thực hiện “Cải tổ” Liên Xô với các nhiệm vụ: (i) “Công khai hóa” để xuyên tạc lịch sử Liên Xô; (ii) đấu tranh chống lại chủ nghĩa xã hội; (iii) tiến hành cải cách để đưa Liên Xô từ chế độ xã hội chủ nghĩa chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trong giai đoan 2 (1990-1995) sẽ thực hiện các nhiệm vụ: (i) xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; (ii) xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô; (iii) xóa bỏ Liên Xô; (iv) giải tán Hiệp ước phòng thủ Warsaw; (v) xóa bỏ ý thức hệ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa yêu nước ở Nga.

Thực tế thì sau này như chúng ta đã biết, khi Gorbachev làm Tổng Bí thư từ năm 1985, ông ta đã thực hiện theo đúng như những gì người Mỹ mong muốn và tính toán với sự phát động cải tổ.

Từ năm 1986, Gorbachev sử dụng thuật ngữ “perestroika” để nói về những cải cách căn bản và toàn diện Liên Xô. Ông ta nhấn mạnh: "Tôi đặt dấu gạch ngang giữa hai từ “cải tổ” và “cách mạng”. Các biện pháp cải tổ mà chúng ta đang tiến hành là một cuộc cách mạng thực sự”. Từ đầu năm 1987, thuật ngữ “cải tổ” trở thành khẩu hiệu chính trị chủ yếu và nổi bật trong Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

Gorbachev giải thích “cải tổ” có nghĩa là “phá bỏ hoàn toàn cải cũ để xây dựng cái mới” mở đầu bằng tuyên bố chủ trương “công khai hóa”. Từ 1987-1988, Gorbachev đưa ra các “giá trị phổ quát của toàn nhân loại” như thị trường, đa nguyên đa đảng, nhà nước pháp quyền.

Từ ngày 28-6 đến 1-7-1988, diễn ra Hội nghị lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Gorbachev đề nghị sẽ tách Đảng Cộng sản Liên Xô ra khỏi chính quyền Xôviết. Nguy hiểm hơn, Hội nghị thông qua Nghị quyết “Về một số biện pháp cấp bách để tiến hành cải cách hệ thống chính trị của đất nước” với tinh thần sẽ sửa đổi Hiến pháp, bầu cử...

Ngày 5-2-1990, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua nghị quyết bỏ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội; thiết lập hệ thống chính trị đa đảng và chức vụ Tổng thống Liên Xô. Ngày 15-3-1990, theo đề xuất của Gorbachev, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô bất thường đã thông qua nội dung sửa đổi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô. Theo đó, nội dung “Đảng Cộng sản Liên Xô được hiến định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội Xô viết” thành “Đảng Cộng sản Liên Xô cùng với các đảng chính trị khác tham gia vào việc hoạch định chính sách của nhà nước Xô viết”.

Ảnh 1: Binh lính Xô viết đang kiểm tra các vũ khí tịch thu từ một tổ chức dân quân địa phương ở Kaunas, Litva vào ngày 26-3-1990. Tổng thống Gorbachev ra lệnh cho các công dân Litva giao nộp vũ khí cho giới chức Liên Xô. Ảnh: AP; Ảnh 2: Một người biểu tình Litva chạy phía trước một xe tăng của quân đội Liên Xô khi lực lượng này nỗ lực giành quyền kiểm soát đối với đài Phát thanh và Truyền hình Litva. Ảnh: Getty; Ảnh 3: Một người biểu tình đang tranh cãi với một quân nhân Liên Xô vào cuối ngày 20-8-1991 khi chiếc xe thiết giáp này án ngữ lối vào trung tâm Moscow. Ảnh: AFP; Ảnh 4: Xe tăng Liên Xô đỗ gần một lối vào điện Kremlin trên quảng trường Đỏ sau khi xảy ra vụ chính biến nhằm lật đổ Tổng thống Gorbachev vào ngày 19-8-1991. Cuộc chính biến vấp phải sự kháng cự của Boris Yeltsin, khi đó là lãnh đạo của nước cộng hòa Xô viết Nga. Ảnh: AFP; Ảnh 5: Một đám đông của phe “dân chủ” bu lấy một xe thiết giáp chở quân của phe chính biến. Vài người còn trèo lên xe này để cản trở nó tiến về quảng trường Đỏ, vào ngày 19-8-1991. Ảnh: AP.

Việc sửa đổi trên đồng nghĩa với xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với nhà nước và xã hội về mặt pháp lý, công nhân đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19, Gorbachev không chỉ giương cao ngọn cờ dân chủ hóa tính công khai, đa nguyên hóa mà còn yêu cầu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, chuyển vai trò đó sang cho Xô-viết.

Thể chế đa đảng, dân chủ nghị viện lên ngôi và đau đớn nhất phải kể đến sự kiện Đại hội đại biểu lần thứ 28 (Đại hội cuối cùng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô trước khi Liên Xô tan rã) tuyên bố “tiến tới Xã hội chủ nghĩa dân chủ hóa nhân đạo”.

Sự kiện trên đã mở đường cho những tổ chức đối lập, chống phá Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông Kusov, Phó chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Nga nhớ lại: “Sửa đổi Hiến pháp chỉ vẻn vẹn một năm, đã có khoảng 20 chính đảng cấp Liên bang, có hơn 500 chính đảng cấp nước cộng hòa. Hầu hết trong đó trở thành lực lượng chính trị cuối cùng thúc đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ và giải tán”.

Ảnh trái: Tổng thống Liên Xô Gorbachev phát biểu trong một đoạn băng thu ngày 19-8-1991, ngày thứ 2 ông bị lực lượng chính biến giam giữ. Ông ta bị thay thế bằng Gennady Yanayev. Ảnh: NBC TV; Ảnh phải: Tổng thống Gorbachev có mặt tại trụ sở Quốc hội Liên Xô ngay sau khi thoát khỏi tình trạng bị quản thúc trong cuộc chính biến tháng 8-1991. Ảnh: EPA.

Được sự cổ vũ của phương châm dân chủ hóa tính công khai và thể chế đa nguyên, đa đảng của Gorbachev, tinh thần dân tộc chủ nghĩa và khuynh hướng ly khai ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ. Tổ chức Đảng ở các nước này cũng ngày càng xa rời trung ương.

Từ năm 1989, Đảng Cộng sản của một số nước cộng hòa như Latvia, Litva, Estonia… đã yêu cầu tách khỏi hoặc độc lập với Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 7 tháng 12 năm 1989, Đảng Cộng sản Litva đã tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô và từ bỏ yêu sách của mình để có một "vai trò lãnh đạo" hiến pháp trong chính trị. Lần đầu tiên ở Liên Xô, Đảng Cộng sản cầm quyền của Litva chính thức độc lập khỏi sự kiểm soát của Moscow.

Và cũng chỉ một năm sau Đảng Cộng sản đã mất quyền lực hoàn toàn trong các cuộc bầu cử quốc hội đa đảng, Vytautas Landsbergis trở thành tổng thống phi Cộng sản đầu tiên của Litva kể từ khi bị sáp nhập vào Liên Xô.

Quốc kỳ búa liềm của Liên Xô tung bay trên nóc tháp Kremlin vào tối Thứ Bảy, ngày 21-12-1991. Vào tối 25-12 năm đó, lá cờ này được hạ xuống lần đầu tiên và được thay bằng quốc kỳ Nga. Liên Xô chính thức giải thể vào ngày 26-12-1991. Ảnh: AP.

Về sau, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải tán trước sự thúc ép của Gorbachev. Kết quả là các tòa nhà làm việc, trung tâm chính trị xã hội, cơ sở nghiên cứu cùng nhiều công trình khác của Đảng Cộng sản Liên Xô đều bị nhà cầm quyền Nga niêm phong và tịch thu.

Tổ chức đảng ở Nga và các nước cộng hòa Liên Xô nhanh chóng bị giải tán hoặc bị cấm hoạt động. Đảng Cộng sản Liên Xô với gần 20 triệu đảng viên đã đánh mất địa vị cầm quyền sau 74 năm. Điều đáng nói là các đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô dường như đã “buông xuôi” , không hề tiến hành bất cứ một hoạt động phản đối quy mô lớn nào nhằm bảo vệ tổ chức đảng của mình.

Mất đảng tất yếu dẫn đến mất nước. Ngày 25-12-1991, Gorbachev đến Phủ Tổng thống ở Điện Kremli chuẩn bị đơn từ chức. 19 giờ, Gorbachev lên Đài truyền hình trung ương- và đau đớn hơn- cả Đài CNN (Mỹ) đọc thư gửi nhân dân Liên Xô và toàn thế giới, tuyên bố từ chức, ngừng mọi hoạt động của mình với chức vụ Tổng thống Liên Xô. Liên bang Xô – viết chính thức tan rã.

Một gia đình ở Moscow theo dõi Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đọc diễn văn từ chức trên truyền hình nhà nước vào ngày 25-12-1991, khi mà Liên Xô trên thực tế đã tan rã từ trước đó, do các nước thành viên đã lần lượt tách ra. Ảnh: AP.

Thật ra, xóa bỏ Đảng Cộng sản là một trong những mục tiêu chiến lược của phương Tây, đứng đầu là đế quốc Mỹ rắp tâm thực hiện với Liên Xô từ rất sớm. Tài liệu tuyệt mật số 20/1 - Chỉ thị của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ (NSC) đề ngày 18-8-1948 "Những mục tiêu của Mỹ đối với Nga" có đoạn viết: "Nếu vị thế của những người cộng sản mất đi thì vấn đề đương nhiên sẽ được giải quyết..."; "...một trong những mục tiêu quân sự chủ yếu của chúng ta đối với Nga là tiêu diệt cơ bản cơ cấu quan hệ mà nhờ đó các thủ lĩnh của Đảng Cộng sản toàn liên bang có được một quyền lực mang tính kỷ luật và tinh thần đối với từng công dân...".

Ngày 25-4-1991, 8 tháng trước khi Liên Xô sụp đổ, Tài liệu của Phòng phân tích những vấn đề Xô viết thuộc Cục tình báo Trung ương Mỹ đã có nhận định rất đúng về gót chân Asin của Liên Xô: "Đảng Cộng sản Liên Xô đang bị tan rã về mặt quy mô khu vực cũng như về tư tưởng. Các lực lượng ở tình trạng phôi thai đang phát triển một hệ thống các đảng mới".

67% người Nga bày tỏ tiếc nuối về sự sụp đổ của nhà nước Liên bang Xô viết. Đây là kết quả thăm dò dư luận do Trung tâm nghiên cứu ý kiến dư luận toàn Nga (VTsIOM) thực hiện đầu năm 2021, nhân dịp tròn 30 năm ngày tổ chức trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên Xô (ngày 17-3-1991). Xét về khía cạnh cảm xúc, các số liệu xã hội học đều cho thấy đa số là những nhận xét mang tính tiêu cực như: Thất vọng, luyến tiếc, buồn bã… Chẳng hạn như, 67% người dân Nga nói rằng, họ cảm thấy tiếc vì Liên Xô sụp đổ, và tỷ lệ này không thay đổi kể từ năm 2005 đến nay”. Năm 2018, Tổng thống Nga Vladimir Putin, khi trả lời câu hỏi sự kiện lịch sử nào ông muốn ngăn chặn xảy ra, đã nói rằng, đó là “sự tan rã của Liên Xô”. Những lời này được nhà lãnh đạo Nga chia sẻ tại Diễn đàn truyền thông của “Mặt trận nhân dân toàn Nga”.

Thật chua xót, điều mà từ đầu thế kỷ XXJ.Keman (1845-1924), một nhà báo Mỹ ủng hộ cách mạng Nga từng cảnh báo đã trở thành hiện thực. Ông viết: "Nếu kẻ nào đó phá tan được sự thống nhất của Đảng Cộng sản như một công cụ chính trị, nước Nga Xô viết có thể sẽ nhanh chóng biến từ một trong những cộng đồng dân tộc hùng mạnh nhất thành một trong những cộng đồng dân tộc hèn hạ và yếu đuối nhất".

Hơn 10 năm sau cơn địa chấn chính trị, nhà nghiên cứu A.P. Sheviakin đã viết cuốn sách Bí ẩn sự diệt vong của Liên Xô - Lịch sử những âm mưu và phản bội 1945 1991 xuất bản tại Moscow năm 2002, cuốn sách được coi là một trong những công trình giá trị và thuyết phục nhất nghiên cứu về sự kiện. Trong cuốn sách, ông đã nhìn nhận việc xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp là vấn đề cốt tử nhất: "Như đã nói, thành tố kiến tạo hệ thống quan trọng nhất là sự hiện diện của một công cụ chính trị như Đảng Cộng sản Liên Xô. Việc từ bỏ vai trò lãnh đạo của nó được hình thành hợp pháp thông qua sự thay đổi Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô đã kéo theo nó việc gạt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô ra khỏi nền tảng quốc gia, để sau đó không lâu, chính ngôi nhà cũng sụp đổ.

Đó là những cách nhìn về thời điểm bước ngoặt. Cần nhắc lại một lần nữa rằng khi đã bước qua thời điểm đó, hệ thống, về thực chất, đã mất khả năng quay trở lại".

Từ sự sụp đổ đau xót của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên bang Xô viết, bài học đã được rút ra với Đảng ta từ rất sớm và ngày nay chúng ta cần tiếp tục nhìn nhận, suy ngẫm để kiên định nguyên tắc số 1: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng.

Năm 1990, trước khi Liên Xô sụp đổ, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta đã được tổ chức. Đảng ta nhận định rõ: Trong quá trình cải tổ, cải cách những người lãnh đạo đã phạm nhiều sai lầm, trong đó có việc hạ thấp hoặc từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Xa hơn nữa, có thể thấy sâu sắc hơn bài học này nếu nhìn lại hành trình mà các Tổng Bí thư của Đảng ta đã thực hiện:

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng ta từ những năm đầu đổi mới trong lần sang thăm Liên Xô đúng vào dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười (1917 - 1987) đã thẳng thắn cảnh báo sai lầm có tính nguyên tắc mà Gorbachev và Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh góp ý: “Với tư cách một người cộng sản, tôi có thể chân thành nói với đồng chí việc bỏ Điều 6 và Điều 7 trong Hiến pháp Liên Xô là một sai lầm nghiêm trọng sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường không chỉ đối với Liên Xô ”. Sau đó, Đảng ta đã sớm khởi thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trơng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII năm 1991. Cương lĩnh đã thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Đảng, kiên định lý tưởng và con đường độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa.

Tập thể lãnh đạo Đảng ta đã chủ động chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những bước hiểm nghèo, đúng vào lúc thế giới xảy ra những "cơn địa chấn chính trị" dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Tổng Bí thư Ðỗ Mười cầm lái con thuyền cách mạng vào thời điểm Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu sụp đổ, phe xã hội chủ nghĩa tan rã. Bản lĩnh chính trị của Đảng lúc này có ý nghĩa quyết định, sống còn. Chúng ta đã vừa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vừa quyết tâm đổi mới nhưng không “cải tổ” như Liên Xô mà xác định "Đổi mới không đổi màu", "Hòa nhập không hòa tan".

Tổng Bí thư Đỗ Mười từng trả lời báo chí: "Tại Đại hội VII năm 1991 của Đảng, tôi được Đảng giao nhiệm vụ là Tổng Bí thư. Rất may là lúc ấy nền kinh tế của chúng ta ổn định một bước. Nhưng thật không ngờ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, tác động xấu đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Bộ Chính trị họp và nhận định tình hình, kịp thời đề ra giải pháp.

Bộ Chính trị đánh giá nguyên nhân của sự sụp đổ ấy ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu là do Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước XHCN anh em đã mắc khá nhiều sai lầm, các thế lực phản động có đánh phá nhưng sự sụp đổ là nguyên nhân chủ quan, nhất là sai lầm về tổ chức, về sắp xếp, bố trí cán bộ ở các vị trí chủ chốt. Từ đó, Đảng ta khẳng định kiên định đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Bác Hồ. Bộ Chính trị triệu tập cán bộ ở 3 miền để giải thích tình hình, tạo yên tâm đoàn kết một lòng để xây dựng đất nước, đồng thời, Bộ Chính trị chỉ đạo cho in toàn tập bộ sách Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phát hành trong toàn quốc...".

Theo nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư Phan Diễn: Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, nhà lãnh đạo của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thường nói: Qua việc Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phải thấy nguy cơ của chuyện không làm tốt công tác xây dựng Đảng, để một bộ phận đảng viên tha hóa, tiêu cực, để xa dân là rất nguy hiểm. Đến Đảng Cộng sản Liên Xô có thể đổ vỡ, thậm chí đổ vỡ rất nhanh thì đừng có nói rằng mình không thể, mình có thể tránh được. Tránh được hay không là tùy thuộc vào việc chúng ta có làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng chế độ hay không?.

Đồng chí Lê Khả Phiêu khẳng định: Độc lập dân tộc và CNXH là sinh mệnh, mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu này phải do Đảng tổ chức và lãnh đạo.

30 năm sau cơn địa chấn chính trị lớn nhất thế kỷ XX ấy, tháng 5 vừa qua, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bài viết quan trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tổng Bí thư nhận định: “…Từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác”.

Hai em bé lem luốc nhìn ra ngoài cửa sổ ở một khu khai thác mỏ than đá và sản xuất thép ở vùng Siberia trong thời kỳ kinh tế khó khăn trên diện rộng ở Liên Xô.

Song trên cơ sở phân tích toàn diện các khía cạnh lý luận và thực tiễn, Tổng Bí thư khẳng định: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

GS, TS Phạm Quang Minh, nguyên Hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng chỉ rõ rằng không thể có sự cáo chung của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam. Bởi theo ông: “Cho đến nay, mẫu hình kinh tế-chính trị đổi mới ở Việt Nam là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Từ góc độ chính trị, thể chế chính trị được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ tập trung dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Ảnh 1: Công dân Nga xếp hàng để mua thực phẩm khan hiếm, vào tháng 11-1991, chỉ một tháng trước khi siêu cường Liên Xô sụp đổ; Ảnh 2: Kinh tế Liên Xô vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 khủng hoảng nặng nề. Trong ảnh, các phụ nữ này đang đổi chai rượu vodka rỗng lấy tiền lẻ tại một điểm tái chế; Ảnh 3: Trong giai đoạn này, không hiếm phụ nữ Liên Xô chấp nhận bán thân nuôi miệng. Trong ảnh là một cô gái 18 tuổi được cho là gái mại dâm, trên đường phố Moscow (Nga) vào cuối năm 1991; Ảnh 4: Bà lão mua thịt gà tại quầy ngoài trời.

GS, TS. Lưu Văn Sùng, nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh rút ra bài học: Xác định kiên định và tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Theo ông khi cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không chỉ là sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mà còn là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.

Bài học xương máu từ sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô sau 30 năm nhìn lại càng cho thấy, nhân dân không hề từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà sự phản bội mang tính chất quyết định của một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã tước đoạt đi chế độ xã hội chủ nghĩa ở đất nước này. Ôn cố để tri tân, để chúng ta tiếp tục làm tốt hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người cầm lái con thuyền cách mạng, người tổ chức và lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.

Cung điện Mùa Đông ở (Xanhpetecbua) Ảnh: Trọng Hải.

Công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định. Cải tổ của Liên Xô đã nôn nóng dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị. Bài học đó thêm một lần nữa cho chúng ta thấy điều kiện tiên quyết là phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội; Đảng phải là người tổ chức và lãnh đạo mọi công việc của sự nghiệp đổi mới hôm nay.

Pháo đài Petro - Pavlov nhìn từ sông Neva; Cung điện mùa Đông; Cung điện mùa Hè; sông Neva... ở nước Nga hôm nay - nơi còn lưu dấu vết vàng son của những cuộc cách mạng thời Xô viết Ảnh: Trọng Hải.